ôn thi luật quốc tế
Năm 1999, quốc gia Alpha gửi cho quốc gia Bêta một văn kiện ngoại giao trong đó đưa ra đề nghị hoạch định biên giới giữa lãnh thổ của Alpha với vùng lãnh thổ Grama mà Bêta đang giữ vai trò đại diện trong quan hệ quốc tế (Grama là thuộc địa của Bêta). Trong văn kiện đó, Alpha nêu rõ nguyên tắc, cách thức hoạch định và có bản đồ hoạch định đính kèm. Trong văn kiện trả lời, Bêta bày tỏ quan điểm đồng ý với đề nghị của Alpha. Hai quốc gia cũng đã tổ chức họp báo để thông báo chính thức về nội dung thỏa thuận. Năm 2002, Grama tách ra khỏi Bêta và tuyên bố trở thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Grama cho rằng thỏa thuận qua các văn kiện ngoại giao giữa Alpha và Bêta không phải là điều ước quốc tế có giá trị ràng buộc giữa các bên. Hơn nữa, nếu thỏa thuận năm 1999 là điều ước quốc tế thì với tư cách là quốc gia mới giành được độc lập, Grama không phải thực hiện các điều ước quốc tế mà Bêta đã đại diện ký kết trước đó. Hãy cho biết:
– Thỏa thuận giữa Alpha và Bêta trong tình huống nêu trên có phải là điều ước quốc tế hay không? Vì sao?
– Sau khi trở thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền, Grama có phải thực hiện thỏa thuận mà Bêta đã ký với Alpha hay không? Vì sao?
BÀI LÀM
Theo điểm a, khoản 1, điều 2 Công ước Viên về luật điều ước quốc tế (1969) thì “thuật ngữ “điều ước” dùng để chỉ một hiệp định quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và bất kể tên gọi riêng của nó là gì”.
Đồng thời, điều 11 Công ước Viên 1969 cũng quy định: “Việc một quốc gia đồng ý chịu sự ràng buộc của một điều ước có thể biểu thị bằng việc ký, trao đổi các văn kiện của điều ước phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập hoặc bằng mọi cách khác được thỏa thuận”.
Để xác định thỏa thuận giữa quốc gia Alpha và quốc gia Bêta có phải là điều ước hay không, ta có thể xét đến đặc trưng về mặt hình thức của điều ước quốc tế. Ta có thể khẳng định rằng, điều ước quốc tế tồn tại chủ yếu dưới hình thức văn bản, nhưng bên cạnh đó còn có điều ước quân tử tồn tại dưới dạng bất thành văn. Như vậy, theo như điều ước quân tử thì điều ước quốc tế không nhất thiết phải tồn tại dưới dạng văn bản. Cũng theo định nghĩa về thuật ngữ “điều ước” quy định tại điểm a, khoản 1, điều 2 Công ước viên 1969 thì điều ước quốc tế không phụ thuộc vào tên gọi của văn bản thỏa thuận này.
Hơn nữa, vùng lãnh thổ Grama đã được quốc gia Alpha khai thác và đại diện trong quan hệ quốc tế, ta có thể hiểu là từ trước năm 1999, Grama đã và đang là “thuộc địa” của quốc gia Alpha và Alpha là quốc gia “bảo hộ”, vì vậy vùng lãnh thổ Grama phải tuân thủ theo những cam kết mà Alpha đã ký. Như vậy, thỏa thuận giữa quốc gia Alpha với quốc gia Bêta về việc hoạch định biên giới giữa lãnh thổ của quốc gia Bêta với vùng lãnh thổ Grama mà quốc gia Alpha đang khai thác và đại diện trong quan hệ quốc tế hoàn toàn có thể là điều ước quốc tế.
Theo tiến sĩ Kaikobad (1983): “Quy tắc chung của luật quốc tế tập quán về vấn đề này là, về nguyên tắc, khi kế thừa từ người tiền nhiệm: quốc gia hưởng không hơn và không kém lãnh thổ đó”.
Hội nghị lần thứ 53 năm 1968 của Hội Luật gia quốc tế đã thông qua nghị quyết về sự kế thừa của các quốc gia mới: “Khi một hiệp định quy định việc phân định biên giới quốc gia giữa hai quốc gia đã được thực hiên, theo đó đường biên giới đã được hình thành thì không cần phải làm gì thêm nữa … và phạm vi lãnh thổ quốc gia cũng đã được xác lập”.
Điều 11 Công ước Viên về kế thừa nhà nước 1978 quy định:
Sự kế thừa quốc gia không ảnh hưởng tới:
Những quy định này là sự khẳng định chính thức nguyên tắc duy trì biên giới ổn định khi xuất hiện sự kế thừa nhà nước.
Như vậy, sau khi vùng lãnh thổ Grama trở thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền thì Grama vẫn phải thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà Alpha đã ký kết thay Grama, trong đó có điều ước với Bêta. Quốc gia Grama không có quyền chọn lựa có thừa kế hay không mà buộc phải thừa kế, vì những điều ước về biên giới lãnh thổ thường có giá trị rất bền vững mang tính ổn định cho dù 1 trong 2 bên có mất tư cách chủ thể thì quốc gia mới vẫn buộc phải thừa kế.
Năm 1960, quốc gia A gửi cho quốc gia B thư đề nghị hoạch định biên giới giữa lãnh thổ của quốc gia B với vùng lãnh thổ C mà quốc gia A đang khai thác và đại diện trong quan hệ quốc tế. Trong thư đó, quốc gia A nêu rõ nguyên tắc, cách thức hoạch định và có bản đồ hoạch định đính kèm. Trong thư trả lời, quốc gia B bày tỏ quan điểm đồng ý với đề nghị của quốc gia A. Hai quốc gia cũng đã tổ chức họp báo để thông báo chính thức về nội dung thỏa thuận.
Tranh chấp lãnh thổ bắt đầu nảy sinh sau khi vùng lãnh thổ C trở thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Quốc gia C cho rằng thỏa thuận qua thư giữa quốc gia A và quốc gia B không phải là điều ước quốc tế có giá trị ràng buộc giữa các bên. Hơn nữa, nếu thỏa thuận năm 1960 là điều ước quốc tế thì với tư cách là quốc gia mới ra đời, quốc gia C không phải kế thừa tất cả các điều ước quốc tế mà quốc gia A đã đại diện ký kết. Hãy cho biết:
– Theo quy định của Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế, thỏa thuận giữa hai quốc gia A và B trong tình huống nêu trên có là điều ước quốc tế hay không? Giải thích tại sao?
– Sau khi độc lập, quốc gia C có phải thực hiện thỏa thuận về biên giới lãnh thổ mà quốc gia A đã ký kết với quốc gia B hay không? Giải thích tại sao?
BÀI LÀM
Có thể khẳng định: thỏa thuận giữa hai quốc gia A và B trong tình huống nêu trên là điều ước quốc tế.
Theo Công ước Viên về luật điều ước quốc tế (1969) thì “thuật ngữ “điều ước” dùng để chỉ một hiệp định quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và bất kể tên gọi riêng của nó là gì”.
Về bản chất, điều ước quốc tế là sự thỏa thuận dựa trên ý chí tự nguyện của các bên liên quan. Chủ thể của điều ước quốc tế là các quốc gia. Điều ước quốc tế tồn tại dưới hình thức văn bản đã được kí kết. Điều ước quốc tế gồm có 3 loại: điều ước quốc tế được kí kết với danh nghĩa Nhà nước, điều ước quốc tế được kí kết với danh nghĩa Chính phủ và điều ước quốc tế được kí kết với danh nghĩa Bộ, ngành. Các điều ước quốc tế được kí kết với danh nghĩa Nhà nước là các điều ước về hoà bình, an ninh, biên giới, lãnh thổ, chủ quyền quốc gia; về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, về tương trợ tư pháp và về các tổ chức quốc tế phổ cập và tổ chức khu vực quan trọng.
Căn cứ theo đề bài, thỏa thuận giữa hai quốc gia A và B trong tình huống nêu trên hoàn toàn có đủ căn cứ để trở thành một điều ước quốc tế. Đây là điều ước quốc tế nhằm hoạch định biên giới lãnh thổ. Việc phân định biên giới lãnh thổ này đã được hai quốc gia thỏa thuận và đi đến kí kết. Điều ước quốc tế này được ghi nhận dưới hình thức văn bản.
Căn cứ vào đề bài, ta có thể thấy đây là trường hợp hình thành quốc gia mới bằng đấu tranh giải phóng dân tộc hoặc qua cách mạng xã hội. Về nguyên tắc, quốc gia C không phải kế thừa toàn bộ các điều ước do quốc gia A kí kết với quốc gia B. Tuy nhiên, nhằm mục đích không làm xáo trộn trật tự pháp lý quốc tế, và nếu điều ước đã kí không đi ngược lại quyền lợi của quốc gia C thì quốc gia C vẫn có thể tuyên bố kế thừa trong lĩnh vực biên giới lãnh thổ.
Năm 2012, tại quốc gia A xảy ra nội chiến. Hàng ngàn người nổi dậy đã tiến hành đập phá các cửa hàng, nhà kho sân bãi nhằm tăng sức ép đề nghị chính phủ đương nhiệm phải từ chức. Cuộc giao tranh giữa Chính phủ đương nhiên và phe nổi dậy ngày càng căng thẳng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hòa bình và an ninh trong khu vực cũng như đe dọa sự an toàn của những người nước ngoài đang có mặt trên lãnh thổ quốc gia A. Trước tình hình nguy cấp này, Hội động bảo an Liên hợp quốc, với tư cách là cơ quan thực hiện chức năng duy trì hòa bình và an ninh thế giới, đã có những cuộc họp nhằm xem xét vấn đề của quốc gia. Dự thảo Nghị quyết của hội đồng bảo an trong đó đề cập đến việc áp dụng các biện pháp cần thiết, kể cả các biện pháp về quân sự, đối với quốc gia A cũng đã được soản thảo. Trong thời gian chờ đợi nghị quyết được thông qua, với tư cách là Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an quốc gia X đã cho một số tàu quân sự của mình tiến sâu vào neo đậu trong lãnh hải của quốc gia A để sẵn sang thực hiện Nghị quyết của Hội đồng bảo an. Hãy cho biết:
– Hành vi của quốc gia X có phù hợp với quy định của Công ước luật biển 1982 hay không? Tại sao?
– Các cơ sở pháp lý cần thiết đảm bảo tính hợp pháp của Nghị quyết do Hội đồng bảo an thông qua?
BÀI LÀM
Trả lời: Hành vi của quốc gia X không phù hợp với quy định của Công ước luật biển 1982. Vì:
Quốc gia X cho neo đậu tàu tại lãnh hải của quốc gia A là trái với quy định của khoản 2 Điều 18 Công ước luật biển 1982 khi thực hiện quyền qua lại lãnh hải đó là đi qua phải liên tục và nhanh chóng. Tuy nhiên, việc đi qua bao gồm cả việc dừng lại và thả neo, nhưng chỉ trong trường hợp gặp phải những sự cố thông thường về hàng hải hoặc vì một trường hợp bất khả kháng hay mắc nạn hoặc vì mục đích cứu giúp người, thuyền hay phương tiện bay đang lâm nguy hoặc mắc cạn”. Trong tình huống này, quốc gia X đã neo đậu tại vùng lãnh hải của quốc gia A mà không phải vì gặp những sự cố thông thường về hàng hải hoặc vì một trường hợp bất khả kháng hay mắc nạn hoặc vì mục đích cứu giúp người, thuyền hay phương tiện bay đang lâm nguy hoặc mắc cạn mà vì để chuẩn bị sẵn sàng thực hiện Nghị quyết của Hội đồng bảo an.
Bên cạnh đó, quốc gia X đã vi phạm quy định của công ước Luật biển 1982 việc đi qua của tàu thuyền nước ngoài bị coi là phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển, nếu như trong lãnh hải, tàu thuyền này tiến hành các họat động quy định tại khoản 2 Điều 19 Công ước Luật hiển 1982. Cụ thể việc đưa quân sự vào khu vực lãnh hại của quốc gia A là hành vi đe dọa hoặc dùng vũ lực chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, điều này càng vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc của Luật quốc tế – nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ luật quốc tế. Việc quốc gia X đưa tàu quân sự vào khu vực lãnh hải của quốc gia A để sẵn sàng thực hiện nghị quyết của Hội đồng bảo an là không có căn cứ vì Nghị Quyết của hội đồng bảo an chưa được thông qua, Nghị quyết của HĐBA được thông qua khi có 9 ủy viên của Hội dồng bảo an, trong đó có tất cả các ủy viên thường trực bỏ phiếu thuận (Điều 27 Hiến chương liên hợp quốc).
Như vậy, hành vi của quốc gia X không phù hợp với Công ước Luật biển 1982.
Dẫn chiếu theo chương 7 Hiến chương liên hợp quốc (từ Điều 39 đến Điều 51) về hành động trong trường hợp hòa bình bị đe dọa, phá hoại hoặc có hành vi xâm lược. Theo đó, Nghị quyết của hội đồng bảo an trong đó đề cập đến việc áp dụng các biện pháp cần thiết, kể cả các biện pháp về quân sự, đối với quốc gia A là hoàn toàn phù hợp. Cụ thể, theo quy định tại Điều 39, Điều 41 Hội đồng có thẩm quyền quyết định những biện pháp áp dụng không liên quan tới việc sử dụng vũ lực để thực hiện nghị quyết của Hội đồng, và yêu cầu các thành viên Liên hợp quốc áp dụng biện pháp đó. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 42 Hiến chương thì nếu những biện pháp được nói tại Điều 41 mà không thích hợp hoặc mất hiệu lực thì Hội đồng bảo an có thẩm quyền áp dụng mọi hành động của hải, lục, không quân nếu Hội đồng bảo an cho rằng đó là cần thiết. Những hành động này có thể là những cuộc biểu dương lực lượng, phong tỏa và những cuộc hành quân khác, do các lực lượng hải, lục, không quân của các nước thành viên Liên hợp quốc thực hiện. Mặt khác, theo quy định tại Điều 51 Hiến chương nêu quốc gia thành viên của LHQ bị tấn công vũ trang mà cho tới khi HĐBA chưa áp dụng được các biện pháp cần thiết để duy trì hòa bình, an ninh quốc tế thì những biện pháp mà quốc gia thành viên của LHQ áp dụng để thực hiện quyền tự vệ chính đáng phải được báo ngay cho HĐBA, do đó, có thể dùng biện pháp quân sự tương xứng nếu trong trường hợp bị tấn công vũ trang.
Hội đồng bảo an xác định tình hình nội chiến trên lãnh thổ quốc gia A không còn là công việc nội bộ của quốc gia A bởi tình hình nội chiến tại quốc gia A có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hòa bình và an ninh trong khu vực cũng như đe dọa sự an toàn của những người nước ngoài đang có mặt trên lãnh thổ quốc gia A. Do đó, sự can thiệp của HĐBA LHQ trong trường hợp này không được coi là vi phạm nguyên tắc của luật quốc tế về “Không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác”.
Để nghị quyết của HĐBA được thông qua thì cần 9 ủy viên của HĐBA, trong đó có tất cả các ủy viên thường trực bỏ phiếu thuận (Điều 27 Hiến chương Liên hợp quốc).
Hundu và Renda đều là hai quốc gia thành viên của Công ước về chống khủng bố quốc tế. Tháng 4/ 2011, Chính phủ Hundu nhận được báo cáo của Cục tình báo quốc gia về việc phát hiện ra nơi ẩn náu trên lãnh thổ Renda của tên trùm khủng bố ( bị truy nã toàn cầu) mà quốc gia này đang tìm kiếm. Chính phủ Hundu ngay lập tức bí mật điều động máy bay quân sự với tần số siêu âm, thoát khỏi sự kiểm soát của rada trinh thám Renda, vượt biên giới, tiến vào lãnh thổ nước này và tấn công nơi ở của tên trùm khủng bố, đồng thời tiêu diệt tên này.
Phát hiện ra hành vi của Hundu, Renda đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ. phía Renda cho rằng hành vi này đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia. Tuy nhiên, Hundu cho rằng hành vi của quốc gia này là nhằm thưc hiện nghĩa vụ thành viên của Công ước về chống khủng bố. Hơn nữa, Tổng thống Hundu đã thực hiện cuộc điện đàm chính thức với Tổng thống Renda và ông này hứa sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hoạt động chống khủng bố được thực hiện bởi Hundu. Hãy cho biết:
– Tính hợp pháp trong hành vi của Hundu? Vì sao?
– Cuộc điện đàm chính thức giữa Tổng thống của hai quốc gia có xác lập nghĩa vụ của Renda trong việc tạo điều kiện cho Hundu tấn công và tiêu diệt trùm khủng bố trên lãnh thổ Renda không? Vì sao?
BÀI LÀM
1.Tính hợp pháp trong hành vi của Hundu? Vì sao?
Hành vi của Hundu là không hợp pháp. Vì:
Hành vi của Hundu đã vi phạm nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia của luật quốc tế. Chính phủ Hundu khi nhận được báo cáo của Cục tình báo quốc gia về việc phát hiện ra nơi ẩn náu trên lãnh thổ Randa của tên Trùm khủng bố ( bị truy nã toàn cầu) mà quốc gia này đang tìm kiếm. Chính phủ Hundu ngay lập tức bí mật điều động máy bay quân sự với tần số siêu âm, thoát khỏi sự kiểm soát của rada trinh thám Renda, vượt biên giới, tiến vào lãnh thổ nước này và tấn công nơi ở của tên trùm khủng bố, đồng thời tiêu diệt tên này đã vi phạm nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia. Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là điều thiêng liêng của mỗi dân tộc, lãnh thổ là biểu hiện của nền độc lập dân tộc và bất khả xâm phạm của mỗi quốc gia. Bảo vệ biên giới, lãnh thổ chính là bảo vệ chủ quyền quốc gia chống lại mọi hình thức ngoại xâm. Tuyên bố về những nguyên tắc của Luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1970 cũng đã quy định rõ nội dung nguyên tắc này. Như vậy, trong tình huống này thì Hundu đã xâm phạm chủ quyền quốc gia Renda vì hành động bí mật điều động máy quân sự tiến vào Renda.
Bên cạnh đó còn vi phạm nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế, nguyên tắc này được quy định trong Tuyên bố năm 1970 của Liên hợp quốc về những nguyên tắc của Luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các quốc gia. Hành vi Hundu bí mật điều động máy bay quân sự với tần số siêu âm, thoát khỏi sự kiểm soát của rada trinh thám Renda, vượt biên giới, tiến vào lãnh thổ Renda có thể bị coi là một hành vi sử dụng vũ lực với quốc gia Renda cho dù có mục đích chỉ là bắt tên khủng bố, nhưng nó làm ảnh hưởng tới nền an ninh của Renda khi có quốc gia dùng lực lượng quân sự tiến vào lãnh thổ mình bí mật như vậy. Tuy luật quốc tế không quy định rõ về định nghĩ thế nào là “ Vũ lực” nhưng theo các văn kiện của Liên hợp quốc thì vũ lực được hiểu là sức mạnh về quân sự, chính trị, kinh tế hoặc ngoại giao mà quốc gia này sử dụng bất hợp pháp đối với quốc gia khác. Hundu và Renda đều là thành viên của Công ước về chống khủng bố quốc tế nên khi tên khủng bố này đang ẩn náu trên lãnh thổ Renda thì Renda phải có nghĩa vụ cùng hợp tác với Hundu để bắt tên trùm khủng bố này chứ Hundu không được bí mật điều động máy bay quân sự tiến vào Renda để tiêu diệt tên khủng bố. Điều này vi phạm nghiêm trọng đến nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế, ảnh hưởng tới nền an ninh quốc gia của Renda.
Cuộc điện đàm này không xác lập nghĩa vụ của Renda trong việc tạo điều kiện cho Hundu tấn công và tiêu diệt tên trùm khủng bố trên lãnh thổ Renda. Vì:
Theo nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác (quy định tại Điều 55,56 Hiến chương liên hợp quốc thì Renda và Hundu phải hợp tác với nhau trong việc bắt tên trùm khủng bố đó nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Sự nỗ lực và thiện chí hợp tác của Renda với Hundu phải dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế sẽ loại bỏ được các hợp tác trái với luật quốc tế và các vấn đề toàn cầu được giải quyết, đây vừa là lời ích chung của các quốc gia vừa là lợi ích cho sự phát triển của các quốc gia đó. Tuy nhiên như phân tích ở ý thứ 1 thì Hundu đã vi phạm hai nguyên tắc cơ bản luật quốc tế nên sự hợp tác này đã không còn là sự hợp tác dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế nữa, hành vi của Hundu đã gây phương hai tới Renda. Bên cạnh đó, Hundu bí mật kế hoạch hành động của mình đó là bí mật điều động máy bay quân sự với tần số siêu âm, thoát khỏi sự kiểm soát của rada trinh thám Renda, vượt biên giới, tiến vào lãnh thổ nước Renda và tấn công nơi ở của tên trùm khủng bố, đồng thời tiêu diệt tên trùm khủng bố. Điều này đã cho thấy Hundu chưa thiện chí trong hợp tác với Renda vẫn cho Renda là “ ngoài cuộc”, cuộc điện đàm này như một lời cam kết Renda sẽ hợp tác tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động chống khủng bố được thực hiện bởi Hundu. Tuy nhiên, cách thức, mức độ hợp tác còn phụ thuộc vào yêu cầu, khả năng của Renda và Hundu cũng cần tôn trọng và tuân thủ theo đúng mức độ hợp tác giữa hai nước và luật pháp quốc tế. Như vậy trong trược hợp này cuộc điện đàm không làm phát sinh nghĩa vụ đối với bên Renda trong việc tạo điều kiện cho Hundu tấn công và tiêu diệt trùm khủng bố trên lãnh thổ Renda.
Xem thêm tại: https://123docz.net/document/9473249-on-thi-luat-quoc-te-cong-phap-quoc-te-2021.htm
Liên hệ: Email: tailieuluatkinhte1327@gmail.com
Facebook: https://www.facebook.com/yakuza1327
Bài viết liên quan:
Đề cương và câu hỏi ôn tập công pháp quốc tế
https://123docz.net/document/11183740-de-cuong-va-cau-hoi-on-tap-cong-phap-quoc-te.htm
Tổng hợp đề thi công pháp quôc tế (luật quốc tế) có đáp án
https://123docz.net/document/9729636-tong-hop-de-thi-cong-phap-quoc-te-luat-quoc-te-co-dap-an.htm
Ôn thi luật quốc tế (công pháp quốc tế) 2021
https://123docz.net/document/9473249-on-thi-luat-quoc-te-cong-phap-quoc-te-2021.htm
Câu hỏi ôn tập công pháp quốc tế (luật quốc tế 2021)
https://123docz.net/document/9446793-cau-hoi-on-tap-cong-phap-quoc-te-luat-quoc-te-2021.htm
tổng hợp câu hỏi ôn thi luật quốc tế (công pháp quốc tế)
https://123docz.net/document/3034621-tong-hop-cau-hoi-on-thi-luat-quoc-te-cong-phap-quoc-te.htm
Ôn thi tốt nghiệp công pháp quốc tế
https://123docz.net/document/10222485-on-thi-tot-nghiep-cong-phap-quoc-te.htm
thi công chức TÒA ÁN TỐI CAO TUYỂN DỤNG 2025 TÀI LIỆU ÔN THI 1.…
thi công chức 1. Số lượng tuyển dụng và vị trí việc làm công chức…
Tòa án Hải Phòng tuyển dung công chức 2024, Tổng chỉ tiểu tuyển dụng: 09…
thi công chức TÒA ÁN TỐI CAO TUYỂN DỤNG 2024 1. Số lượng tuyển dụng…
đề thi công chức VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ... HỘI ĐỒNG TUYỂN DỤNG…
Tòa án An Giang tuyển dụng công chức 2024, tuyển dụng 15 công chức tòa…